Lạc tiên



Tên Việt Nam: Lạc tiên, chùm bao, nhãn lồng.

Tên khoa học: Passiflora foetida L.

Tên nước ngoài: Stinking passion – flower. Granadilla, tagua passion – flower (Anh); passiflore, passion (Pháp).

Họ: Lạc tiên (Passifloraceae)

Công dụng:

Lạc tiên được dùng làm thuốc an thần, chữa mất ngủ, suy nhược thần kinh hay mơ. Ngọn non của cây thường được thu hái để luộc ăn vào buổi chiều hoặc trước khi đi ngủ vài giờ.

Quả chín vàng ăn ngon.


Thông tin chuyên sâu (Dành cho các bạn muốn tìm hiểu thêm)


Mô tả:

Cây leo bằng tua cuốn. Thân mềm, tròn và rỗng, có lông thưa. 


Lá mọc so le, chia 3 thuỳ, thuỳ giữa lớn hơn hai thuỳ bên, mép uốn lượn có lông mi nhỏ, gốc hình tim, đầu nhọn, gân lá hình chân vịt, hai mặt có lông mịn; tua cuốn mọc ở kẽ lá, đầu cuộn lại như lò xo.


Hoa to, đều, lưỡng tính, mọc riêng lẻ ở kẽ lá; tổng bao gồm 3 lá bắc rời nhau chia thành những đài nhỏ như sợi; bao hoa gồm 5 lá đài màu xanh lục, mép viền trắng, mỗi lá đài có một phần phụ hình sừng nhọn ở mặt ngoài; 5 cánh hoa rời nhau, màu trắng pha tím nhạt ở giữa, xếp xen kẽ với các lá đài một vòng tua gồm rất nhiều phần phụ của cánh hoa hình sợi chỉ, màu tím; ở giữa hoa, có một cột nhỏ hình trụ (cuống nhị nhuỵ) mang 5 nhị có bao phấn đính lưng, màu vàng; bộ nhuỵ có 3 lá noãn; bầu thượng một ô.


Quả mọng, hình trứng, dài khoảng 3 cm, bao bọc bởi tổng bao lá bắc tồn tại, vỏ quả mỏng khi chín màu vàng; hạt nhiều, có áo hạt thơn, ăn được.

Mùa hoa: tháng 5 – 7; mùa quả: tháng 8 – 10.

Phân bố:

Mọc hoang ở khắp nơi tại nước ta. Trước đây hầu như nhân dân ta không dùng cây này làm thuốc. Từ năm 1940, một dược sĩ Việt Nam từ Pháp về thấy cây này hơi giống Passiflora ở bên Pháp mà tại Pháp người ta dùng cây đó làm thuốc an thần nên đã dùng cây lạc tiên của ta chế thành thuốc làm thuốc an thần.

Nguồn lạc tiên ở Việt Nam nhìn chung khá dồi dào. Lượng khai thác làm thuốc hàng năm không ảnh hưởng nhiều tới dự trữ tự nhiên. Cây bị tàn phá chủ yếu do nạn phá rừng lấy đất canh tác.

Sinh thái:

Lạc tiên là cây ưa ẩm và ưa sáng, thường mọc trùm lên các cây bụi ở ven đường, đồi, nhất là ở các trảng cây bụi tái sinh sau nương rẫy.

Cây sinh trưởng mạnh từ khoảng giữa tháng 3 đến tháng 8. Hoa quả nhiều hàng năm. Mùa đông cây có hiện tượng hơi rụng lá. Tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt. Sau khi bị chặt, phần còn lại tái sinh cây chồi khoẻ.

Cách trồng:

Lạc tiên là cây cận nhiệt đới, có thể trồng được ở vùng đồng bằng, nhưng trồng ở miền núi (có độ cao trên 1000 m), cây cho quả có chất lượng tốt hơn.

Cây được nhân giống bằng hạt, bằng cành giâm hoặc áp cành.

Hạt lấy ra khỏi quả, rửa sạch, hong khô nơi râm mát rồi gieo ở vườn ươm, sau 2 – 3 tuần sẽ nảy mầm. Ngâm nước trước khi gieo, hạt sẽ nảy mầm nhanh hơn.

Cành giâm là cành bánh tẻ của cây đã trưởng thành, chặt thành đoạn có từ 3 mắt trở lên, trồng thẳng hoặc giâm cho ra rễ. Thời vụ giâm tốt nhất vào mùa xuân.

Lạc tiên không đòi hỏi đặc biệt về chất đất. Có thể trồng đất cát, đất xấu, nhưng cây sẽ sinh trưởng phát triển tốt hơn nếu trồng trên đất nhiều màu, sâu, thoát nước.

Trồng quanh nhà có thể cho leo lên tường, hàng rào hoặc giàn.

Trồng bằng hạt, sau 18 – 24 tháng cây sẽ cho quả. Quả chín sau khi ra hoa khoảng 3 tháng, được thu vào tháng 6 – 7 và tháng 9 – 10.

Nếu trồng theo quy mô lớn thì chu kỳ là 3 – 4 năm. Sau đó, cần xử lý đất và luân canh vì cây bị tuyến trùng gây hại. Ngoài ra, cần chú ý phòng trừ rệp, nhện đỏ, ruồi đục quả...

Tính vị, công năng:

Toàn cây lạc tiên có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi thuỷ. Quả có vị ngọt. Chua, tính bình, mùi thơm, có tác dụng nhuận phế, chỉ thống.

Tài liệu tham khảo:

Cây cỏ và động vật làm thuốc ở Việt Nam - Viện dược liệu

Từ điển thực vật thông dụng - Võ Văn Chi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét