Bạc hà


Tên Việt Nam: Bạc hà, bạc hà nam, nạt nặm, chạ phiéc hom (Tày)

Tên khoa học: Mentha arvensis L.

Tên nước ngoài: Field mint, corn mint (Anh)

Họ: Hoa môi (Lamiaceae)

Thận trọng:

Đối với trẻ em ít tuổi, tinh dầu bạc hà và menthol bôi mũi hay cổ họng có thể gây hiện tượng ức chế dẫn tới ngừng thở và tim ngừng đập hoàn toàn. Người ta đã nhận xét thấy một số trường hợp chết do nhỏ mũi 1 giọt dầu menthol 1% hoặc bôi niêm mạc mũi thuốc mỡ có menthol. Do đó, cần hết sức thận trọng khi dùng tinh dầu bạc hà hay dầu cù là cho trẻ con ít tuổi, nhất là trẻ mới đẻ.

Công dụng:

1. Bạc hà được dùng làm rau thơm trong các món ăn.

2. Bạc hà trị ngoại cảm phong nhiệt, phát sốt không ra mồ hôi, nhức đầu, ngạt mũi, ho, viêm họng, sưng đau, mắt đỏ, ngứa nổi mề đay, bụng đau, đầy trướng, tiêu hoá kém, nôn mửa. Thường dùng phối hợp với nhiều thuốc khác.

3. Bạc hà  dùng làm cho thuốc thơm dễ uống và chữa đau bụng đi ngoài.

4. Tinh dầu bạc hà và menthol có tác dụng sát khuẩn, xoa bóp nơi sưng đau, như khớp xương, thái dương khi nhức đầu.

5. Cây khô bạc hà được dùng làm thuốc chống co thắt, gây trung tiện, tống hơi trong ruột ra, làm dễ tiêu, gây tác dụng kích thích, điều kinh, lợi tiểu.

6. Nước hãm lá bạc hà dùng điều trị bệnh thấp khớp và chứng ăn không tiêu. Tinh dầu bạc hà đã loại menthol được dùng làm thơm nước súc miệng, kem đánh răng và các dược phẩm.

Liều dùng:

Lá và toàn cây bạc hà: ngày uống từ 4 – 8g dưới dạng thuốc hãm.

Kiêng kỵ: người gầy yếu, suy nhược toàn thân, táo bón, huyết  áp cao, trẻ em dưới một tuổi không nên dùng.


Thông tin chuyên sâu (Dành cho các bạn muốn tìm hiểu kỹ)


Mô tả:

Cây thảo, sống lâu năm. Thân mềm, hình vuông. Loại thân ngầm mang rễ mọc bò lan, loại thân đứng mang lá, cao 30 – 40cm, có khi hơn, màu xanh lục hoặc tím tía, đôi khi phân nhánh.

Lá mọc đối, hình bầu dục hoặc hình trứng, cuống ngắn, mép lá khía răng đều.


Hoa nhỏ màu trắng,  hồng hoặc tím hồng, mọc tụ tập ở kẽ lá thành những vòng nhiều hoa; lá bắc nhỏ, hình dùi; đài hình chuông có 5 răng đều; tràng có ống ngắn, phiến tràng chia làm bốn phần gần bằng nhau, có một vòng lông ở phía trong; 4 nhị bằng nhau, chỉ nhị nhẵn. 



Quả bế, có 4 hạt (ít gặp). Các bộ phận trên mặt đất có lông gồm lông che chở và lông bài tiết tinh dầu.

Mùa hoa quả vào tháng 7 – 10.

Phân bố:

Bạc hà có đại diện ở 2 quần thể: bao gồm bạc hà dại (M. arvensis L.) mọc tự nhiên ở vùng núi cao 1300 – 1600 m, có khí hậu ẩm mát như Sapa (Lào Cai), Sìn Hồ (Lai Châu), Mù Cang Chải (Yên Bái) và Mường Lống (Nghệ An).

Quần thể bạc hà trồng bao gồm một số giống lai từ các loài M. arvensis L., M. aquatica L., M. spicata L. và M. piperita L. Những giống này được nhập từ Liên Xô trước đây, Pháp và Trung Quốc từ năm 1955 – 1974 và gần đây. Qua thử nghiệm, một vài giống bạc hà (nhất là giống BH 974) đã được trồng phạm vi lớn ở nhiều địa phương.

Sinh thái:

Bạc hà là loài cây đặc biệt ưa ẩm và ưa sáng, mọc hoang dại thường tập trung thành những đám nhỏ gần bờ suối hay trong thung lũng. Đất nơi bạc hà mọc thường có màu nâu đen, tơi xốp và giàu chất mùn.

Cây ra hoa hàng năm, nhưng hình thức tái sinh chủ yếu vẫn bằng cách mọc chồi, đẻ nhánh bò lan trên mặt đất.

Cách trồng:

Bạc hà có thể trồng được ở đồng bằng, trung du và miền núi, nhưng sinh trưởng tốt hơn ở nhiệt độ 20 – 25 độ và ở nơi có đầy đủ ánh sáng.

Đất thích hợp để trồng bạc hà là đất tơi xốp, giữ được ẩm, màu mỡ. Năng suất và chất lượng tinh dầu của cây trên đất pha cát cao hơn so với cây trồng trên đất thịt nặng, úng nước.

Bạc hà thường được nhân giống bằng thân ngầm hoặc bằng thân cành. Vào mùa đông, phần thân lá bị lụi đi, người ta giữ nguyên ruộng bạc hà, thỉnh thoảng có thể tưới ẩm nếu thời tiết quá khô hạn, đến mùa xuân thì đào chọn lấy thân ngầm khoẻ mạnh để làm giống. Mỗi hecta cần khoảng 600 – 700kg mầm giống. Ngoài ra, còn có thể tách lấy thân cành sao cho có một ít rễ ở phần gốc để trồng. Trồng bằng thân cành thường phải trồng muộn hơn, năng suất lứa đầu cũng không cao so với trồng bằng thân ngầm.

Thời vụ trồng bạc hà ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ là tháng 2 – 3, ở miền núi là tháng 3 – 4, ở các tỉnh khu 4 cũ là tháng 1 – 2. Ở các tỉnh phía nam có thể trồng vào đầu mùa mưa.

Ruộng trồng bạc hà cần bố trí trên đất thoát nước, tiện tưới tiêu, không bị che khuất. Cần tưới và giữ ẩm ngay sau khi trồng cũng như trong suốt thời gian sinh trưởng. Bạc hà rất kỵ úng nên cần thoát nước tốt trong mùa mưa. Chú ý làm sạch cỏ thường xuyên.

Bệnh hại bạc hà nguy hiểm nhất là bệnh gỉ sắt hại lá do nấm Puccinia menthae gân nên. Có thể dùng Benlate (1kg pha trong 800 – 1000 lít/ha) để phun phòng trừ. Ngoài ra còn có các loại sâu, nhện và rệp hại lá. Có thể chữa trị bằng Basudin và Sherpa.

Bạc hà trồng 2 – 3 tháng có thể thu hoạch. Tuỳ thời vụ trồng sớm muộn và khả năng chăm sóc mà mỗi năm có thể thu hoạch 2 – 3 lứa. Khi cây ra hoa khoảng 70% là đúng lúc thu hoạch. Dùng liềm cắt sát gốc lấy toàn bộ thân lá để cất tinh dầu. Nếu chưa kịp cất tinh dầu ngay thì cần trải mỏng ở nơi râm mát, tránh để thành đống. Sau mỗi lứa cắt, chú ý làm vệ sinh đồng ruộng, bón bổ sung 5 – 7 tấn/ha phân chuồng ủ mục với lân và kali. Phân được rắc đều lên mặt luống, phủ đất và tưới ẩm.

Trung bình, lứa thứ nhất có thể thu được 8 – 10 tấn, lứa thứ hai: 5 – 7 tấn, lứa thứ ba: 3- 5 tấn thân lá tươi/ha. Năng suất tinh dầu thường đạt 70 – 75kg/ha.

Bộ phận dùng:

Lá (thu hái vào thời kỳ ra hoa) và các bộ phận trên mặt đất.
Tinh dầu cất từ lá và các bộ phận trên mặt đất đã được tinh chế.

Tác dụng dược lý:

Tinh dầu bạc hà và menthol bốc hơi nhanh, gây cảm giác và ê tại chỗ, dùng trong trường hợp đau dây thần kinh, còn có tác dụng sát khuẩn mạnh. Thường dùng trong những trường hợp ngứa của một số bệnh ngoài da, bệnh về tai mũi họng. Đối với trẻ em ít tuổi, tinh dầu bạc hà và menthol bôi mũi hay cổ họng có thể gây hiện tượng ức chế dẫn tới ngừng thở và tim ngừng đập hoàn toàn. Người ta đã nhận xét thấy một số trường hợp chết do nhỏ mũi 1 giọt dầu menthol 1% hoặc bôi niêm mạc mũi thuốc mỡ có menthol. Do đó, cần hết sức thận trọng khi dùng tinh dầu bạc hà hay dầu cù là cho trẻ con ít tuổi, nhất là trẻ mới đẻ.

Bạc hà, tinh dầu bạc hà hay menthol uống với liều rất nhỏ có thể gây hưng phấn, làm tăng bài tiết của tuyến mồ hôi, làm nhiệt độ cơ thể hạ thấp. Liều lớn có tác dụng kích thích tuỷ sống, gây tê liệt phản xạ và ngăn cản sự lên men bình thường trong ruột. Bạc hà có tác dụng kháng vi khuẩn trong thí nghệm in vitro  đối với các chủng vi khuẩn tả Vibrio cholerae Eltor, Vibrio cholerae Inaba, Vibrio  cholerae Ogawa. Tinh dầu bạc hà có tác dụng ức chế thần kinh trung ương có thể gây tê liệt thần kinh do tác dụng chủ yếu  của menthol.

Tính vị, công năng:

Bạc hà có vị cay thơm, tính ấm, có tác dụng phát tán phong nhiệt, hoá đàm hạ tích, tiêu sưng chỉ ngứa.

Tài liệu tham khảo:

Cây cỏ và động vật làm thuốc ở Việt Nam - Viện dược liệu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét